Kết quả đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp theo Nghị quyết số 131/NQ-CP của Chính phủ

Ngày 01/02/2024, UBND tỉnh ban hành Báo cáo số 32/BC-UBND về kết quả thực hiện Nghị quyết số 131/NQ-CP của Chính phủ đẩy mạnh cải cách TTHC và hiện đại hóa phương thức chỉ đạo, điều hành phục vụ người dân, doanh nghiệp năm 2023 tỉnh Quảng Nam.

Theo đó, UBND tỉnh đã cơ bản hoàn thành nhiệm đề ra tại Nghị quyết; một số kết quả nỗi bật như hoàn thành 100% việc kiện toàn Bộ phận Một cửa các cấp; ủy quyền ban hành 70 Quyết định công bố Danh mục TTHC sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ với 1318 TTHC được địa phương hóa thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, đã công khai đầy đủ 1318 trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC; Thực hiện nghiêm việc tiếp nhận, giải quyết TTHC, DVC; tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, đổi mới phương thức, lề lối làm việc, kiên quyết xử lý theo đúng quy định cán bộ, công chức, viên chức, người lao động có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tự ý đặt ra TTHC không đúng quy định hoặc để chậm, muộn nhiều lần theo Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ; đã hoàn thành hợp nhất Cổng DVC và Hệ thống thông tin một cửa điện tử tỉnh thành Hệ thống thông tin giải quyết TTHC, phê duyệt Danh mục DVC trực tuyến gồm 1199 DVC toàn trình và 439 DVC một phần; tham mưu Nghị quyết số 07/2023/NQ-HĐND quy định mức thu phí, lệ phí đối với hoạt động cung cấp DVC trực tuyến trên địa bàn tỉnh; đã thực hiện công khai số liệu thực hiện TTHC theo thời gian thực; định kỳ hằng tuần gửi và hằng tháng công khai số liệu để các cơ quan, đơn vị, địa phương theo dõi triển khai, cải thiện điểm số; phối hợp với các cơ quan, đơn vị hoàn thiện danh sách cơ quan, tổ chức, cá nhân chậm muộn trong giải quyết TTHC, DVC để yêu cầu 100% hồ sơ TTHC để chậm, muộn đều phải có báo cáo giải trình lý do với người đứng đầu cơ quan, đơn vị và thực hiện xin lỗi người dân theo đúng quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ; đã triển khai, kết nối Hệ thống thông tin giải quyết TTHC tỉnh với Phần mềm DVC liên thông do Bộ Công an quản lý để thực hiện điện tử đối với 02 nhóm DVC liên quan đến khai sinh, thường trú, cấp thẻ bảo hiểm và khai tử, xóa thường trú, trợ cấp mai táng phí.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 131/NQ-CP của Chính phủ vẫn còn những hạn chế cụ thể như:

           1. Số liệu Bộ Chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh tại các hệ thống thông tin chưa khớp với số liệu công khai Cổng DVC quốc gia; chưa xếp hạng được các sở, ngành, phải xử lý thống kê thủ công, chỉ số công khai minh bạch phụ thuộc vào thời gian các Bộ, ngành công bố, công khai vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC và số liệu giải quyết TTHC chuyên ngành do Bộ, ngành triển khai nhưng chưa kết nối đồng bộ được với Hệ thống thông giải quyết TTHC tỉnh.

          2. Triển khai thực hiện TTHC trên môi trường điện tử theo Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ hạn chế trong việc ký số vào biểu mẫu giấy tờ do người dân chưa được trang bị Token miễn phí, các tài khoản tại Cổng DVC chưa được định danh và xác thực điện tử đầy đủ theo quy định để thực hiện ký số từ xa.

          3. Việc thực hiện Đề án triển khai thực hiện cơ chế giao doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính công ích đảm nhận một số công việc trong quá trình hướng dẫn, tiếp nhận, số hóa hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC trên địa bàn tỉnh gặp khó khăn do phải đảm bảo đầy đủ pháp lý, tuy nhiên định mức kinh tế - kỹ thuật cho nhiệm vụ chuyển giao một số nhiệm vụ qua BCCI, số hóa kết quả giải quyết TTHC chưa được cơ quan chức năng quy định cụ thể để triển khai nhiệm vụ. 

          4. Các DVC trực tuyến chưa được tái cấu trúc, hoàn thiện tính năng kỹ thuật đáp ứng yêu cầu DVC toàn trình để thuận tiện cho nhu cầu sử dụng của người dân, doanh nghiệp; người dân vẫn chưa quan tâm nhiều, thành thạo với việc nộp hồ sơ TTHC trên môi trường mạng nên số lượng hồ sơ trực tuyến chưa cao tại cấp huyện và cấp xã.

           5. Hiện tại cách tính trễ hạn xử lý hồ sơ trên Hệ thống Cổng DVC quốc gia vẫn chưa đồng bộ và phù hợp thực tế tại địa phương, chưa có chức năng tạm dừng đợi bổ sung hồ sơ hoặc đợi lấy ý kiến các cơ quan có thẩm quyền đúng theo quy định. Việc trễ hạn hồ sơ theo Bộ Chỉ số phục vụ người dân, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực đất đai tại Văn phòng Đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài Nguyên và Môi trường và các Phòng, Ban cấp huyện, UBND cấp xã còn bất cập về thời gian giải quyết do thiếu một số quy trình (đo đạc, lấy ý kiến khu dân cư…); lĩnh vực lý lịch tư pháp, xây dựng, giáo dục đào tạo, nội vụ, lao động, thương binh và xã hội… còn tình trạng Bộ công bố thời hạn giải quyết là “ngày, ngày làm việc” nên khó khăn cho việc thiết lập quy trình nội bộ, quy trình điện tử; lĩnh vực TTHC liên thông liên quan đến khai sinh, thường trú, cấp thẻ bảo hiểm, khai tử, xóa thường trú, hỗ trợ mai táng phí gặp lỗi quá tải, mất kết nối do phải liên thông trên nhiều hệ thống chuyên ngành của Bộ, ngành Trung ương. 

Tin liên quan